Nguyên nhân để vi sinh vật này tồn tại và phát triển lại chính do những người tham gia giết mổ tại các lò mổ không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm gây nên.
Hầu hết người tiêu dùng hiện nay đều không biết rằng, vi sinh vật chết song độc tố vẫn tồn tại, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, ngay cả khi được nấu sôi, trong đó người tham gia giết mổ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ô nhiễm vi sinh vật làm mất an toàn thực phẩm.
Mất an toàn thực phẩm chủ yếu từ lây nhiễm vi sinh vật
Khi được hỏi về thực phẩm an toàn, chắc chắn con số người tiêu dùng sẽ trả lời “thịt gia súc, gia cầm được làm sạch sẽ, được bày bán trên bàn cao hơn, không dính bận...”.
Tại Diễn ra tọa đàm “Chuyển tải thông điệp an toàn thực phẩm tới công chúng thông qua tăng cường hợp tác giữa nghiên cứu và báo chí - trường hợp thực phẩm có nguồn gốc động vật” mới đây do Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR), Trường đại học Y tế Công cộng (HUPH), Hội Nhà báo Việt Nam và Viện nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) đồng tổ chức.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Dương Nga - nguyên Trưởng Bộ môn Phân tích định lượng, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết, theo nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát trên một số hộ gia đình, 98% số hộ mua thịt lợn, thịt gia cầm tại chợ truyền thống. Đây là nơi khó đảm bảo các vấn đề về vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Bà Nga cho biết, 92% số người được hỏi tin rằng thịt lợn không an toàn có thể phát hiện qua quan sát bằng mắt thường; chỉ 41% số người được hỏi cho rằng thịt lợn được nấu kỹ sẽ an toàn. Và vẫn còn 10% số người trong khảo sát khẳng định, vẫn sử dụng chung thớt cho tất cả các loại thực phẩm cả sống và chín.
“Đây đều là những nguy cơ dẫn đến mất vệ sinh, an toàn thực phẩm. Nhiều người có thể không biết rằng, vi sinh vật chết song độc tố vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, ngay cả khi được nấu sôi”, bà Nga nhấn mạnh.
Thêm vào đó, đối với vấn đề an toàn thực phẩm, đa số mọi người hiện nay cho rằng người chăn nuôi là người chịu trách nhiệm lớn nhất. Nhưng thực tế người giết mổ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ô nhiễm vi sinh vật.
“Biện pháp ở đây là có thể thành lập hợp tác xã để truy xuất nguồn gốc của thực phẩm”, bà Nga nói.
Kết quả phân tích cho thấy, có 30% số mẫu lấy ở chợ; 48.9% số mẫu lấy tại trang trại, và 41,8% số mẫu lấy tại các lò mổ đã phát hiện dương tính với vi khuẩn campylobacter. Xét nghiệm vi khuẩn salmonella, thấy 44,4% số mẫu lấy ở chợ, 50% số mẫu lấy từ lò mổ và 21,7% số mẫu lấy từ trang trại đã bị nhiễm loại vi sinh vật này. Kết quả xét nghiệm E.coli, thì 100% các mẫu ở trang trại, chợ và điểm giết mổ đều bị nhiễm.
TS. Đặng Xuân Sinh, chuyên gia của Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) nói: "Trong số các vi sinh vật thường lây nhiễm trên thịt, vi khuẩn Salmonella là một trong 4 vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm, gây tiêu chảy hàng đầu ở các nước phát triển và trên toàn cầu”.
TS. Sinh cũng đề xuất một số giải pháp can thiệp đơn giản nhằm cải thiện an toàn thực phẩm chuỗi thịt lợn, thịt gà truyền thống. Đó là, cần tập huấn cho người giết mổ; thay thế tấm sàn giết mổ, nguồn nước rửa và sát trùng thường xuyên; phân tách khu sạch/bẩn, đi lại trong quá trình giết mổ.
"Cần tập huấn cho người bán thịt lợn, thịt gà ở chợ về vệ sinh mặt bàn, vệ sinh, dùng riêng thớt, rửa và sát trùng thường xuyên, phân tách thịt sống với nội tạng và đồ chín. Các can thiệp cần có sự hỗ trợ, tương tác quản lý giám sát của chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý, cũng như gắn với truyền thông tốt về an toàn thực phẩm tới các tác nhân và người tiêu dùng", ông Đặng Xuân Sinh đề xuất.
Ở góc nhìn khác, TS. Fred Unger - Trưởng Dự án SafePORK, Trưởng Đại diện ILRI tại Đông Nam Á cho biết, đa số người dân hiện chỉ quan tâm đến ô nhiễm hóa học đối với thực phẩm. Những ô nhiễm hóa học bao gồm: thuốc kích thích tăng trưởng, lượng tồn dư kháng sinh...
Trong khi đó, người dân lại chưa dành sự quan tâm đúng mức về ô nhiễm vi sinh vật - một yếu tố có thể dẫn đến nguy cơ ung thư.
“Các nghiên cứu gần đây cho thấy những bằng chứng rõ ràng về ô nhiễm vi sinh trên thịt lợn, thịt gà và thịt bò. Trong khi đó, nhiều người vẫn còn hiểu lầm về nguy cơ ô nhiễm hóa chất” - TS. Fred Unger nhấn mạnh.
Mặc dù, công chúng ngày càng có nhu cầu cao đối với thông tin về an toàn thực phẩm, cách thức để lựa chọn thực phẩm an toàn. Tuy nhiên, thông tin hiện nay thường tập trung theo hướng phản ánh thông điệp mang tính tiêu cực, thay vì đưa ra những bằng chứng khoa học giúp người tiêu dùng bảo vệ bản thân, gia đình phòng tránh những thực phẩm không an toàn. Vì vậy, người tiêu dùng nhiều khi chưa hiểu đúng, hiểu đủ về vấn đề.
Người tiêu dùng chưa quan tâm nhiều đến ô nhiễm vi sinh vật
Người tiêu dùng hiện đang lầm tưởng và cho rằng, việc mất an toàn thực phẩm chủ yếu nằm ở khâu chăn nuôi, đó là việc sử dụng các loại thức ăn công nghiệp, chất tạo nạc, chất hóa học còn tồn dư trong thực phẩm khi đến tay người tiêu dùng, thông qua chế biến nhưng không loại bỏ được những chất hóa học này, dẫn đến hậu quả cơ thể con người tích tụ quá nhiều những chất hóa học đó trong cơ thể con người, dẫn đến mắc các bệnh nan y. Mà người tiêu dùng chưa nhìn thấy việc mất an toàn thực phẩm lại do từ vi sinh vật.
Hiện người dân có nhu cầu cao đối với thông tin về an toàn thực phẩm, cách thức để lựa chọn thực phẩm an toàn. Tuy nhiên, khi nói đến vấn đề mất an toàn thực phẩm, người dân quan tâm nhiều đến vấn đề ô nhiễm hóa chất trong thực phẩm mà chưa quan tâm nhiều đến những nghiên cứu, bằng chứng rõ ràng về ô nhiễm vi sinh trên thịt lợn, thịt gà và thịt bò.
Theo TS. Phạm Đức Phúc, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu Y tế Công cộng và Hệ sinh thái (CENPHER), Trường đại học Y tế Công cộng, Dự án SafePORK đã khảo sát về mức độ hiểu biết của người tiêu dùng tại Việt Nam về vấn đề an toàn thực phẩm đối với thịt lợn.
Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 92% số người tiêu dùng được hỏi cho rằng: thịt lợn không an toàn có thể phát hiện qua quan sát bằng mắt thường; 78% số người được hỏi cho rằng hóa chất trong thực phẩm (thịt lợn) là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư; 41% số người được hỏi cho rằng nếu thịt lợn được nấu kỹ thì sẽ an toàn.
Khảo sát về thái độ của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm đối với thịt lợn, 37% số người được hỏi cho rằng: Trách nhiệm đảm bảo an toàn thực phẩm là của Chính phủ. Có 28% số người cho rằng: Các bệnh do thực phẩm gây ra thường không nghiêm trọng.
“Những kết quả khảo sát cho thấy người tiêu dùng vẫn còn hiểu sai và quan tâm chưa đầy đủ về an toàn thực phẩm. Bởi vi sinh vật không thể quan sát bằng mắt thường, vì vậy không thể chỉ nhìn mà phân biệt được thịt lợn an toàn hay không”, TS. Phạm Đức Phúc, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu Y tế Công cộng và Hệ sinh thái (CENPHER) cho biết.
Từ những nhận thức có phần thiên lệch này, khiến vấn đề vệ sinh ít được người tiêu dùng quan tâm ở khâu chế biến, nấu nướng thịt tại nhà. Trong khi, chính khâu chế biến, nấu nướng không tuân thủ quy trình cũng là một trong những nguyên nhân gây ra mất an toàn thực phẩm.
Truyền thông cần vào cuộc mạnh mẽ
Nghiên cứu của PGS. Nguyễn Thị Dương Nga và các cộng sự chỉ ra niềm tin của người dân về an toàn thực phẩm với kênh tivi, truyền thanh, báo chí lên tới 7,9/10 điểm, xếp cao nhất so với người tiêu dùng khác (7,4 điểm); siêu thị (6,9 điểm); chính quyền địa phương (6,8 điểm).
Trong khảo sát này, niềm tin từ nhóm người bán lẻ ở chợ, người chăn nuôi, người giết mổ đứng thấp hơn, xếp sau cả niềm tin về mạng xã hội.
“Người tiêu dùng hiện nay đã chuyển hướng sang sử dụng nhiều sản phẩm an toàn thực phẩm hơn. Tuy nhiên, việc ô nhiễm vi sinh vật chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là người chăn nuôi, người giết mổ gia súc, gia cầm... Vì vậy, cần có cách truyền thông đúng đắn về vệ sinh ở khâu chế biến, bán lẻ để thay đổi tư duy của người tiêu dùng cũng như người bán hàng...”, bà Nga nêu quan điểm.
Bác sĩ Trần Thị Thu Liễu, Cục An toàn thực phẩm của Bộ Y tế chia sẻ một số thách thức trong truyền thông nguy cơ về an toàn thực phẩm hiện nay. Do xu hướng mua sắm trực tuyến qua mạng bùng nổ dẫn đến khó quản lý về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm.
TS. Fred Unger, Trưởng dự án SafePORK, Trưởng đại diện ILRI tại Đông Nam Á, cho rằng các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng công chúng có nhu cầu cao đối với thông tin về an toàn thực phẩm, cách thức để lựa chọn thực phẩm an toàn.
Tuy nhiên, thông tin hiện nay thường tập trung theo hướng phản ánh các thông điệp mang tính tiêu cực, thay vì đưa ra những bằng chứng khoa học giúp người tiêu dùng bảo vệ bản thân và gia đình phòng tránh những thực phẩm không an toàn.
“Chính vì vậy, cần có giải pháp kết nối các nhà nghiên cứu và các cơ quan truyền thông, báo chí, nhằm hỗ trợ và thúc đẩy công tác truyền thông nguy cơ an toàn thực phẩm hiệu quả hơn, đáp ứng được những nhu cầu thông tin của công chúng”, TS. Fred Unger nhấn mạnh.
Nêu quan điểm của mình, ông Trần Thái Sơn, Phó Trưởng Ban nghiệp vụ, Hội nhà báo Việt Nam cho rằng thời gian tới, cần nâng cao hơn nữa vai trò của báo chí, truyền thông trong việc định hướng thông tin một cách khoa học và có trách nhiệm tới cộng đồng về các vấn đề sức khoẻ con người.