Tin hot

Kết nối thị trường, chuẩn hóa sản xuất để nâng giá trị nông sản


Kết nối tiêu thụ gắn với chuẩn hóa quy trình sản xuất đang trở thành hướng đi then chốt nhằm nâng cao giá trị, ổn định đầu ra và phát triển bền vững nông sản.

Kiểm soát chất lượng “nút thắt” của xuất khẩu nông sản

Trong hai ngày 22-23/12, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng tổ chức Diễn đàn Kết nối nông sản vùng Đồng bằng sông Hồng, hướng tới thị trường Tết. Diễn đàn được thiết kế như một không gian trao đổi trực tiếp giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân, nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn trong tiêu thụ nông sản vụ Đông, thời điểm nguồn cung lớn, thời gian thu hoạch ngắn và áp lực thị trường tăng cao vào cuối năm.

Toàn cảnh diễn đàn. Ảnh Tùng Đinh

Toàn cảnh diễn đàn. Ảnh Tùng Đinh

Không chỉ dừng lại ở bài toán “bán hàng”, diễn đàn tập trung thảo luận sâu về cách thức tổ chức sản xuất theo tín hiệu thị trường, kiểm soát chất lượng và từng bước chuyển từ tư duy sản lượng sang tư duy giá trị.

Chia sẻ tại diễn đàn, ông Bùi Kiên Cường, đại diện Công ty Cổ phần Phát triển nông nghiệp Vàng cho biết, nhu cầu nhập khẩu hành của Ấn Độ và nhiều thị trường châu Á là rất lớn. Tuy nhiên, nghịch lý “được mùa, mất giá” vẫn liên tục tái diễn ở các vùng trồng hành trong nước.

Theo ông Cường, nguyên nhân cốt lõi không nằm ở sản lượng mà ở chất lượng, cụ thể là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (MRL) vượt ngưỡng cho phép. Đây là tiêu chí bắt buộc trong xuất khẩu, song lại đang là điểm yếu phổ biến trong sản xuất hành hiện nay. Hành là loại cây mẫn cảm, yêu cầu kỹ thuật chăm sóc cao, quy trình canh tác nghiêm ngặt hơn nhiều loại cây trồng khác.

“Muốn đạt chuẩn xuất khẩu, không thể áp dụng tư duy cũ, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quen dùng cho lúa hay hoa màu. Cây hành đòi hỏi bộ thuốc riêng, quy trình riêng và sự tuân thủ chặt chẽ từ đầu đến cuối vụ”, ông Cường nhấn mạnh.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở khâu tổ chức sản xuất trên diện rộng. Trong điều kiện sản xuất còn manh mún, nông dân thường ưu tiên giải pháp dễ làm, chi phí thấp và hiệu quả ngắn hạn. Trong khi đó, các quy trình đạt chuẩn xuất khẩu đòi hỏi sự đồng bộ từ vật tư đầu vào, kỹ thuật canh tác đến thu hoạch và sơ chế - điều mà sản xuất nhỏ lẻ rất khó đáp ứng.

Từ thực tế này, đại diện doanh nghiệp cho rằng, kết nối thị trường chỉ thực sự hiệu quả khi đi kèm với tổ chức lại sản xuất. Chỉ khi kiểm soát được dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và chuẩn hóa quy trình trên diện tích đủ lớn, cây hành Việt Nam mới có thể khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng, từng bước thoát khỏi vòng luẩn quẩn “được mùa, mất giá”.

Ở góc độ doanh nghiệp xuất khẩu, bà Ngô Thị Thu Hồng, Giám đốc Công ty Cổ phần AMEII Việt Nam, cho biết hiện doanh nghiệp đang tập trung bao tiêu và xuất khẩu nhiều loại cây vụ Đông, trọng tâm là cà rốt và bắp cải. Trung bình mỗi năm, AMEII xuất khẩu khoảng 80-100 container cà rốt sang thị trường Hàn Quốc. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng mở rộng liên kết tiêu thụ các mặt hàng như ớt, cải thảo, xà lách, phục vụ nhu cầu chế biến kim chi.

“Năm nay, hai đối thủ cạnh tranh chính là Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) gặp khó khăn do mất mùa và thu hoạch chậm. Đây là cơ hội để nông sản Việt Nam gia tăng thị phần. AMEII đã liên kết với 6-8 xưởng để tăng cường sản xuất cà rốt và mong muốn các cơ sở này tiếp tục nâng cấp quy mô, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đối tác quốc tế”, bà Hồng cho biết.

Theo AMEII, xây dựng và quản lý vùng nguyên liệu, cùng sự đồng hành của cơ quan nhà nước, là điều kiện tiên quyết để xuất khẩu bền vững. Doanh nghiệp đang hướng tới các vùng trồng đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP, coi đây là “giấy thông hành” để tiếp cận và giữ vững thị trường.

Bên cạnh xuất khẩu nông sản tươi, AMEII mong muốn các nhà khoa học và cơ quan quản lý tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản sâu. Điều này không chỉ giúp nâng cao giá trị gia tăng mà còn kéo dài thời gian xuất khẩu quanh năm, giảm phụ thuộc vào thời vụ.

“Thị trường Hàn Quốc hiện đã siết chặt kiểm soát, tiến hành kiểm tra toàn bộ các lô hàng nhập khẩu. Vì vậy, bà con nông dân cần đồng hành lâu dài và tuân thủ tuyệt đối các quy định về an toàn thực phẩm. Chuyên gia kỹ thuật của AMEII luôn theo sát vùng trồng ít nhất 30-45 ngày trước thu hoạch để giám sát, lấy mẫu kiểm nghiệm. Đồng thời, chúng tôi cũng kiến nghị có chính sách hỗ trợ chi phí logistics, đặc biệt tại khu vực Hải Phòng, nhằm tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt”, bà Hồng đề xuất.

Chuẩn hóa mã số vùng trồng, mở rộng thị trường cho nông sản vụ đông

Ở góc độ quản lý nhà nước, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, kiểm soát sản xuất và truy xuất nguồn gốc hiện không chỉ đặt ra với nông sản xuất khẩu hay phân khúc cao cấp, mà cả thị trường nội địa.

Kết nối thị trường, chuẩn hóa sản xuất để nâng giá trị nông sản  - 2

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Trồng trọt, trong đó có Điều 64 về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, phù hợp hơn với thực tiễn. Khi các quy định này có hiệu lực, việc xây dựng và quản lý mã số vùng trồng sẽ được triển khai bài bản hơn, làm nền tảng cho xuất khẩu chính ngạch, đồng thời nâng cao chất lượng và tính minh bạch của nông sản tiêu thụ trong nước.

Theo bà Hương, nhiều nghị định thư xuất khẩu sang Trung Quốc tiếp tục được chuẩn hóa đối với các mặt hàng như chuối, dưa hấu, mít; trong khi thị trường Australia đã chính thức mở cửa cho bưởi Việt Nam. Đây là tín hiệu tích cực để ngành trồng trọt mở rộng thị trường trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, đánh giá chung về vụ Đông năm nay tại khu vực phía Bắc, bà Hương cho biết diện tích gieo trồng đạt khoảng 380.000 ha, trong bối cảnh dư địa đất đai vẫn còn lớn. Định hướng của ngành là xác lập vụ đông như một vụ sản xuất chính, góp phần tăng giá trị trên đơn vị diện tích, nâng thu nhập cho nông dân và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương.

Để phục vụ tốt thị trường Tết, bà Hương lưu ý các địa phương cần bám sát thời vụ, điều chỉnh diện tích linh hoạt theo tín hiệu thị trường; rà soát cơ cấu cây trồng theo nhóm thu hoạch trước, cận và sau Tết; tăng cường sản xuất an toàn, chủ động sơ chế, bảo quản tại chỗ và đẩy mạnh kết nối thị trường, đặc biệt hướng tới các thị trường có Tết âm lịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore.

Tại thị trường trong nước, nông sản Việt đang chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống siêu thị nhờ độ tươi, khả năng truy xuất nguồn gốc và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng đô thị. Đáng chú ý, thị trường quà Tết những năm gần đây có sự chuyển dịch rõ rệt khi người tiêu dùng không còn chỉ quan tâm đến hình thức, mà ưu tiên giá trị sử dụng và lợi ích cho sức khỏe. Xu hướng này mở ra cơ hội cho nông sản Việt, đồng thời đặt ra yêu cầu cao hơn về chất lượng, minh bạch nguồn gốc và năng lực cung ứng ổn định trong mùa cao điểm.

Tác giả: Nguyễn Hạnh
Tìm kiếm chúng tôi