Nông hộ, 'xương sống' của ngành cà phê Việt Nam
Với lượng cung chiếm trên 95% trong tổng lượng cung cà phê của cả ngành, nông hộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong chuỗi cung ngành hàng cà phê của Việt Nam. Hiện, có trên 600 nghìn nông hộ đang tham gia sản xuất cà phê với trên 90% diện tích cà phê trong tổng diện tích trên 700 nghìn ha của ngành là từ hộ. Hầu hết các diện tích này tập trung tại khu vực Tây Nguyên nơi sản xuất cà phê truyền thống; một phần nhỏ diện tích mới được phát triển tại Tây Bắc trong thập kỷ gần đây.
Nông hộ cà phê đối mặt nhiều thách thức trong hành trình đáp ứng quy định EUDR. Ảnh: Mạnh Đại
Khoảng 90% cà phê của Việt Nam là để xuất khẩu. EU là thị trường quan trọng nhất của ngành cà phê Việt Nam, với 40% cà phê của Việt Nam được xuất khẩu vào thị trường này. Năm 2023, Liên minh châu Âu ban hành Quy định chống phá rừng (EUDR) trong đó yêu cầu 7 mặt hàng nông lâm sản, bao gồm cà phê, xuất khẩu vào thị trường này phải đảm bảo hợp pháp, không gây mất rừng và đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc.
Các sản phẩm không đáp ứng được với các yêu cầu này sẽ bị từ chối nhập khẩu. Đáp ứng với các yêu cầu của EUDR có vai trò sống còn đối với ngành cà phê Việt Nam. EUDR chính thức có hiệu lực vào cuối năm 2025.
Theo báo cáo “Nông hộ sản xuất cà phê Việt Nam với khả năng đáp ứng quy định EUDR” do Forest Trends phối hợp với tổ chức TAVINA thực hiện, khảo sát trên 95 hộ trồng cà phê tại Tây Nguyên và Sơn La cho thấy, cà phê đóng góp tới 78,8% thu nhập hộ gia đình, tương đương gần 590 triệu đồng mỗi năm. Tuy nhiên, các hộ lại đối mặt với nhiều rào cản trong việc đáp ứng EUDR.
Một trong những trở ngại lớn nhất là tính pháp lý trong sử dụng đất. Diện tích canh tác cà phê của hộ nhìn chung nhỏ lẻ và phân tán. Trung bình mỗi hộ sở hữu khoảng 1,3 ha, phần lớn chia thành nhiều lô nhỏ. Khoảng 34% số hộ có dưới 1 ha, 61% có dưới 2 ha và bình quân mỗi hộ có gần 2 lô đất.
Đáng chú ý, 96% các lô đất hộ đang trồng cà phê được các hộ canh tác trước năm 2020. 26% số lô đất hộ đang trồng cà phê được canh tác trước năm 2000. Khoảng cách từ lô đất sản xuất tới bìa rừng là một trong những tiêu chí đánh giá rủi ro trong sản xuất cà phê và mất rừng.
Khoảng 10% số lô đất hộ đang trồng cà phê có khoảng cách tới rừng dưới 300 m và được coi là rủi ro cao về mất rừng. 86% lô đất khảo sát có mức rủi ro thấp (khoảng cách từ lô đất tới rừng trên 500 m) và 4% có rủi ro trung bình (khoảng cách từ 300 tới 500 m).
Tuy nhiên, hầu hết các lô đất được coi là rủi ro cao đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là cơ sở đảm bảo hộ là chủ thể canh tác hợp pháp trên lô đất. Điều này làm giảm tính rủi ro về mất rừng trong sử dụng đất.
Về truy xuất nguồn gốc, nhiều hộ chưa ghi chép đầy đủ quá trình thu hái, lưu trữ và bán sản phẩm. Gần 54% số hộ không thực hiện ghi chép; trong số còn lại, việc ghi chép chưa phân tách theo lô đất hay từng đợt thu hoạch, gây khó khăn cho việc kiểm tra và truy xuất theo yêu cầu EUDR.
Khảo sát cũng chỉ ra sự chênh lệch rõ rệt giữa hộ người Kinh và hộ đồng bào dân tộc về tính pháp lý đất đai. Có tới 82% số lô đất của hộ người Kinh đã có sổ đỏ, trong khi con số này ở nhóm hộ đồng bào chỉ là 55%. Bên cạnh đó, khoảng cách từ lô đất đến bìa rừng của hộ đồng bào (4,6 km) cũng gần hơn nhiều so với hộ người Kinh (9,9 km), tiềm ẩn rủi ro cao hơn về vi phạm quy định EUDR.
Doanh nghiệp, chính quyền cần đồng hành cùng nông hộ
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, TS. Tô Xuân Phúc, Giám đốc Chương trình Chính sách, Tài chính và Thương mại rừng của Tổ chức Forest Trends, cho rằng, thực trạng sản xuất cà phê của các hộ cho thấy nhiều vấn đề tại cấp hộ cần giải quyết để đáp ứng với các yêu cầu của EUDR.
Các vấn đề này tồn tại trong các khâu khác nhau, đặc biệt tại khâu sử dụng đất của hộ. Thiếu các bằng chứng minh chứng hộ là chủ thể hợp pháp trong sử dụng đất, hộ tuân thủ với pháp luật về đất đai trong sử dụng đất, thiếu thông tin về địa chí lô đất sản xuất, khoảng cách nhỏ từ lô đất sản xuất tới rừng hoặc lô đất sản xuất nằm trên diện tích đất được quy hoạch là đất lâm nghiệp... là những tồn tại chủ yếu trong khâu này.
Bên cạnh đó, hiện còn thiếu hệ thống truy xuất trong khâu thu hái lưu trữ sản phẩm và trong các hoạt động bán sản phẩm của hộ. Các tồn tại này cản trở sự tuân thủ của hộ đối với các yêu cầu EUDR.
Để đáp ứng với yêu cầu của thị trường, nông hộ cần sự hỗ trợ đặc biệt từ các bên liên quan, đặc biệt là từ các bên liên quan hiện đang tham gia trong chuỗi cùng với hộ. Các hỗ trợ bao gồm tuyên truyền tập huấn, quảng bá thông tin, đặc biệt là hỗ trợ hộ trong việc thực hiện các hoạt động truy xuất. Tập huấn, hỗ trợ cho hộ cần đảm bảo thông tin và kiến thưc gần nhất với hộ, để hộ có thể dễ dàng tiếp cận.
Các bên tham gia chuỗi cung, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia liên kết với hộ cần xác định hộ là một hợp phần không thể tách dời trong mô hình kinh doanh của mình từ đó xác định việc giúp đỡ hộ trong việc đảm bảo hộ tuân thủ với luật pháp và thực hiện các hoạt động truy xuất là trách nhiệm doanh nghiệp.
Các cơ quan quản lý cấp địa phương cần giúp hộ trong việc xác định nguồn gốc đất đai, thông tin nền về tình trạng tài nguyên rừng và các hỗ trợ cần thiết khác về mặt thông tin, công nghệ nhằm đảm bảo hộ đáp ứng được với yêu cầu trong quy định mới của thị trường.
Thông tin và các hình thức hỗ trợ hộ trong việc đáp ứng EUDR cần quan tâm tới yếu tố khác biệt về thành phần dân tộc của các hộ trồng cà phê và về yếu tố địa phương. Việc tập trung nguồn lực hỗ trợ các nhóm hộ và những địa phương này sẽ giúp cho việc năng cao năng lực cho các hộ và các địa phương này, nhằm giảm bớt khó khăn hơn cho các hộ và giảm rủi ro trong việc bị loại bỏ khỏi chuỗi cung ứng.
Dù không phải tất cả nông hộ đều phải tuân thủ EUDR, nhưng xu hướng truy xuất nguồn gốc đang trở thành điều kiện bắt buộc tại nhiều thị trường. Việc thích ứng với EUDR không chỉ là yêu cầu ngắn hạn mà là hướng đi lâu dài cho ngành cà phê Việt Nam nếu muốn giữ vững vị thế xuất khẩu.