Liên kết sản xuất và tiêu thụ, trục xoay tái cơ cấu nông nghiệp
Sau hơn 6 năm triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP, hàng nghìn dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản đã hình thành trên khắp cả nước, kết nối hơn 200.000 hộ nông dân với doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ hợp tác. Các mô hình liên kết không chỉ giúp nâng cao giá trị sản phẩm mà còn trở thành trục xoay trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đưa nông sản Việt tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp. Ảnh minh họa.
Nghị định 98 được đánh giá đã “giải đúng bài toán then chốt” khi tạo cơ chế pháp lý và tài chính thúc đẩy hợp tác giữa các chủ thể trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Tổng số vốn huy động cho các dự án liên kết đạt trên 15.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chiếm 21%, phần còn lại do doanh nghiệp và nông dân đối ứng. Điều này thể hiện tinh thần đồng đầu tư và cùng hưởng lợi.
Trước đây, các hợp đồng liên kết chủ yếu dừng ở mức mua, bán nông sản. Hiện nay, nhiều mô hình đã tiến tới quản trị chuỗi giá trị, từ vùng nguyên liệu đến chế biến, bao bì, thương hiệu và xuất khẩu. Tuy nhiên, quá trình triển khai cũng bộc lộ những hạn chế. Một số địa phương vẫn tập trung vào ký hợp đồng tiêu thụ mà chưa hình thành được chuỗi giá trị toàn diện. Hỗ trợ mang tính dự án, chưa khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ xanh, kinh tế tuần hoàn. Một số quy định về thời hạn liên kết, điều kiện thụ hưởng còn cứng nhắc, khiến doanh nghiệp nhỏ và hợp tác xã khó tiếp cận.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 98, bổ sung cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu đạt chuẩn xuất khẩu. Trọng tâm là gắn kết các chuỗi liên kết với các chương trình lớn như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cùng các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, giảm phát thải.
Góp ý vào việc sửa Nghị định 98, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Lộc Trời, chia sẻ bốn vấn đề cần ưu tiên hoàn thiện gồm: Khung pháp lý, rà soát và làm rõ chính sách liên kết, ứng dụng khoa học - công nghệ và bảo đảm lợi ích thiết thực cho nông dân. "Việc sửa đổi Nghị định 98 là cần thiết và kịp thời, giúp giải quyết những vướng mắc tồn tại sau hơn 6 năm triển khai", ông Thòn nhấn mạnh.
Theo ông Huỳnh Văn Thòn, doanh nghiệp hiện cần hỗ trợ mạnh mẽ hơn, nông dân cần liên kết chặt chẽ, còn các chủ thể tham gia phải có cơ chế kết nối hiệu quả. Đây là cơ hội quan trọng để triển khai các dự án lớn như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, đồng thời giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn.
Về khung pháp lý, Tập đoàn Lộc Trời đề xuất phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương, cho phép giao quyền trực tiếp, đảm bảo thủ tục minh bạch và đúng thẩm quyền. Công tác thẩm định dự án trung bình có thể giao cho cấp cơ sở, tăng tính chủ động và nâng cao năng lực quản lý dự án. Kết hợp hệ thống khuyến nông, mô hình thí điểm sẽ triển khai đồng bộ và hiệu quả, hình thành hệ sinh thái nông nghiệp theo chuỗi ngành hàng.
Trong nhóm chính sách hỗ trợ, Tập đoàn Lộc Trời đề xuất cơ chế “hậu kiểm, hậu hỗ trợ”, nghĩa là doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia ngay từ đầu, Nhà nước hoàn trả phần kinh phí sau khi mô hình vận hành hiệu quả. Đồng thời, cơ chế bảo hiểm và trọng tài độc lập sẽ bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm của các bên, đảm bảo pháp lý vững chắc.
Về khoa học – công nghệ, việc chuyển giao đến nông dân cần thực hiện sát nhất với sản xuất. Kết hợp cơ chế đầu tư công – tư, quỹ khuyến nông, tiến bộ kỹ thuật mới nhất sẽ được áp dụng thực tiễn, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
Về tài chính, Tập đoàn Lộc Trời kiến nghị ngân hàng và tổ chức tín dụng tham gia trực tiếp vào hệ sinh thái. Điều này giúp nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã tiếp cận vốn dễ dàng, hình thành chuỗi liên kết bền vững. “Điểm then chốt là nhu cầu vốn lớn nhưng khả năng tiếp cận còn hạn chế. Mô hình thử nghiệm sẽ giúp xác định hiệu quả, từ đó hoàn thiện thể chế”, ông Thòn nhấn mạnh.

Tăng sức cạnh tranh nông sản bằng liên kết chuỗi giá trị xanh. Ảnh minh họa
Ở góc độ hợp tác xã, bà Nguyễn Thị Mai, Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp An Ninh (Hưng Yên), cho biết, trước khi xây dựng thương hiệu và chuỗi liên kết, nông dân sản xuất tự phát, giá trị sản phẩm thấp. “Sau khi triển khai chuỗi liên kết và đạt chứng nhận OCOP, lượng tiêu thụ tăng gấp 10 lần, từ 40 tấn lên 400 tấn/năm” bà Mai nói.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn như thời tiết, chi phí sản xuất cao và tư duy manh mún trong nông dân. Bà Mai đề xuất cơ chế hỗ trợ tích tụ ruộng đất, cơ giới hóa, hạ tầng, chuyển đổi số, xúc tiến thương mại và đào tạo cán bộ quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả chuỗi liên kết, mở rộng thị trường và nâng tầm giá trị nông sản Việt.
Tương tự, bà Bùi Thị Hạnh Hiếu, Tổng Giám đốc Công ty CP Kinh doanh Chế biến Nông sản Bảo Minh, cho hay doanh nghiệp hiện liên kết hơn 8.000 điểm bán, triển khai xuất khẩu, thương mại điện tử và bán lẻ online. Với vùng lúa Hải Dương 500 ha, bà Hiếu đề xuất tăng mức hỗ trợ vốn từ 10 tỷ lên 50 tỷ đồng cho doanh nghiệp đầu tư lớn, đồng thời,phân luồng hỗ trợ theo quy mô sản xuất, hoàn thiện cơ chế liên kết để hình thành vùng nguyên liệu đạt chuẩn, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng xuất khẩu.
Chìa khóa nâng tầm nông sản Việt trong kinh tế số và cam kết Net Zero
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng, liên kết chuỗi giá trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Các sản phẩm chủ lực như gạo ST25, cà phê Buôn Ma Thuột, điều Bình Phước, trái cây Nam bộ đã hình thành vùng nguyên liệu lớn, đạt chuẩn quốc tế, góp phần nâng tầm thương hiệu nông sản Việt.
Sự thành công đến từ niềm tin hợp tác của “3 nhà” gồm: Nhà nước, doanh nghiệp và nhà nông, cùng chia sẻ lợi ích và gánh rủi ro, tạo chuỗi giá trị bền vững. “Ngày nay, chuỗi liên kết không chỉ là hợp đồng mua bán. Trong kinh tế số và cam kết Net Zero 2050, chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, phát thải thấp, truy xuất nguồn gốc và thương mại carbon là động lực kinh tế mới cho nông dân và doanh nghiệp Việt Nam”, Thứ trưởng Hưng nhấn mạnh.
Dù vậy, nhiều chuỗi liên kết vẫn thiếu bền vững, chưa khép kín chu trình giá trị, hỗ trợ còn rườm rà, liên kết số và xanh chưa được quan tâm đúng mức; năng lực hợp tác xã còn yếu.
Để khắc phục, Bộ Nông nghiệp và Môi trường gợi mở 4 định hướng chiến lược. Thứ nhất, cải cách thủ tục, cơ chế hỗ trợ, minh bạch, thuận lợi, lấy hiệu quả chuỗi giá trị làm trọng tâm. Thứ hai, phát triển chuỗi giá trị số và xanh, thúc đẩy truy xuất nguồn gốc, quản trị số, giảm phát thải và tín chỉ carbon. Thứ ba, tổ chức lại sản xuất gắn với vùng nguyên liệu đạt chuẩn, minh bạch, có hệ thống mã số vùng trồng và bản đồ số. Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp, kết nối chặt chẽ giữa sản xuất, thị trường, hợp đồng, vận hành chuỗi.
“Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất, mà còn là niềm tin và bản lĩnh hội nhập của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp Việt Nam”, Thứ trưởng Võ Văn Hưng nhấn mạnh.
Tại Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX) năm 2025 diễn ra ngày 28/11, Phó Thủ tướng đề nghị khẩn trương trình Chính phủ về Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/07/2018 của Chính phủ về liên kết HTX; xây dựng Chương trình tổng thể về đào tạo nông dân số, nông dân chuyên nghiệp và đội ngũ quản trị HTX hiện đại; xây dựng cơ chế đào tạo nghề, phát triển đội ngũ xã viên, nông dân có chất lượng, năng lực chuyên môn cao.













