Trong phần trình bày về liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng: việc liên kết chuỗi giá trị cùng với xây dựng hệ sinh thái số đang trở thành hai yếu tố then chốt của nông nghiệp hiện đại. Đây là nền tảng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo minh bạch trong sản xuất – tiêu thụ và củng cố niềm tin của thị trường trong nước lẫn quốc tế.
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Ông Thịnh nhận định, Việt Nam là một trong những quốc gia có nền nông nghiệp phát triển mạnh và được quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt ở khu vực kinh tế tập thể và hợp tác xã, vẫn tiến triển chậm so với nhiều nước trên thế giới.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay cả nước có khoảng 7.000 mô hình liên kết nông nghiệp, trong đó 3.000 mô hình hoạt động theo Nghị định 98, thu hút hơn 4.000 hợp tác xã và 600.000 hộ nông dân tham gia.
Dù đạt được những kết quả tích cực, hệ thống liên kết trong nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế như Tỷ lệ hợp tác xã tham gia liên kết thấp, chỉ khoảng 25%. Liên kết chưa sâu, chủ yếu dừng ở các thỏa thuận mua – bán theo mùa vụ, thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro và đầu tư chung. Thiếu hệ thống giám sát và truy xuất dữ liệu, khiến việc kiểm soát chất lượng còn hạn chế. Chưa có động lực đầu tư vùng nguyên liệu ổn định, khi nhiều doanh nghiệp chỉ tập trung vào khâu tiêu thụ mà chưa đồng hành với nông dân trong suốt chuỗi sản xuất.
Để khắc phục những tồn tại này, ông Thịnh cho rằng cần hoàn thiện khung pháp lý về liên kết chuỗi và hệ sinh thái số, đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, nâng cao năng lực số cho hợp tác xã, và tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút đầu tư công nghệ, hướng tới nền nông nghiệp xanh, thông minh và bền vững.
Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ)
Tại Diễn đàn, ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) chia sẻ: “Chúng tôi luôn xem nông nghiệp là lĩnh vực khó nhất nhưng cũng đáng làm nhất trong hành trình chuyển đổi số.”
Theo ông Ninh, đặc thù của nông nghiệp là quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, hạ tầng kết nối còn yếu, và khả năng đầu tư công nghệ chưa đồng đều. Tuy vậy, nếu vượt qua những rào cản này, nông nghiệp sẽ trở thành ngành dẫn đầu trong chuyển đổi số quốc gia.
Trên cơ sở đó, ông Trần Duy Ninh đề xuất bốn nhóm hành động trọng tâm nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp: Xây dựng khung kiến trúc riêng cho ngành nông nghiệp, có nhánh riêng phục vụ khu vực hợp tác xã. Chuẩn hóa dữ liệu nông nghiệp quốc gia, bổ sung dữ liệu về hợp tác xã vào nhóm 116 cơ sở dữ liệu trọng điểm do Bộ Công an quản lý. Phát triển nền tảng “Hợp tác xã số” – hệ thống dùng chung cho toàn quốc, giúp các hợp tác xã giảm chi phí thuê và duy trì phần mềm riêng lẻ. Mở rộng các sàn giao dịch công nghệ, giúp hợp tác xã dễ dàng tiếp cận, thuê hoặc mua giải pháp số phù hợp với quy mô và nhu cầu thực tế.
Ông Ninh khẳng định, giai đoạn tới, ba trụ cột quan trọng của chuyển đổi số nông nghiệp sẽ là: Hạ tầng và dữ liệu số; Nền tảng số dùng chung; Nguồn nhân lực và doanh nghiệp đồng hành. Những yếu tố này, khi được triển khai đồng bộ, sẽ tạo nên hệ sinh thái số hoàn chỉnh, giúp nông nghiệp Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
















