Khác biệt trong quy tắc xuất xứ
RCEP là hiệp định thương mại tự do bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 nước đối tác là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia và New Zealand. Hiệp định này cũng mở ra khu vực thị trường lớn nhất thế giới.
Nội dung các điều khoản trong quy tắc xuất xứ hàng hóa của RCEP nhìn chung không có sự khác biệt so với Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA) và một số hiệp định ASEAN+1 mà Việt Nam là thành viên. Hàng hóa có xuất xứ của Việt Nam xuất khẩu sang các nước thành viên được xem xét cho hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ RCEP khi có giấy chứng nhận xuất xứ (C/O).
Cùng với đó, hàng hóa có xuất xứ của các nước thành viên nhập khẩu vào Việt Nam được xem xét cho hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ RCEP khi nộp C/O hoặc chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa do nhà xuất khẩu đủ điều kiện phát hành.
RCEP có quy định cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong khối. Có nghĩa, bất kỳ nguyên liệu nào xuất xứ trong khối được quốc gia thành viên cấp C/O RCEP thì hàng hoá được hưởng ưu đãi thuế quan.
Tuy nhiên, theo đại diện Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), một số quốc gia trong khối có áp dụng quy định phân biệt thuế quan và phân biệt xuất xứ, bao gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam. Bộ Công Thương Việt Nam cũng đã nội luật hóa điều khoản khác biệt về thuế và áp dụng mức thuế xuất nhập khẩu khác nhau cho cùng một mặt hàng đối với các nước đối tác.
![]() |
| Một số quốc gia thành viên RCEP áp dụng những quy tắc xuất xứ khác biệt |
Do vậy, khi xuất khẩu hàng hoá sang các nước thành viên RCEP, trong đó có Nhật Bản doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ danh mục sản phẩm, nguyên liệu để lựa chọn mẫu C/O phù hợp và được hưởng ưu đãi thuế quan. Mặt khác, hiện một số quốc gia mặc dù đã ký hiệp định nhưng đang chờ Chính phủ phê duyệt, cho đến khi các quốc gia này thực sự trở thành thành viên của RCEP các cam kết ưu đãi thuế quan mới có hiệu lực.
Cửa ngách cho hàng Việt vào Nhật Bản
Không chỉ RCEP, Việt Nam và Nhật Bản còn là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do khác. Sự kế thừa, bù đắp và xoá bỏ thuế quan giữa các hiệp định giúp hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản thuận lợi hơn. Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nhật Bản có tính bổ sung rõ nét, không có sự cạnh tranh trực tiếp.
Trong đó, Việt Nam hiện đang xuất khẩu mạnh nhóm hàng nông, thuỷ sản, dệt may, da giày sang thị trường Nhật bản. Trong đó, nông thuỷ sản chiếm 2,9% tỷ trọng, hàng dệt may chiếm 14,3% tỷ trọng và hàng da giày chiếm 21,8% tỷ trọng nhập khẩu của Nhật Bản.
Dù là một trong những thị trường truyền thống của Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp đều than khó khi muốn mở rộng xuất khẩu hoặc xuất khẩu mới sang thị trường này. Trong đó, việc tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng được đánh giá vô cùng trắc trở. Nguyên do, các nhà bán hàng Nhật Bản thường không nhập khẩu trực tiếp mà thông qua doanh nghiệp trung gian có lịch sử lâu đời, hệ thống phân phối đa dạng.
Để hỗ trợ hàng Việt thâm nhập tốt hơn vào thị trường Nhật Bản, Bộ Công Thương đã ký biên bản ghi nhớ với AEON- Tập đoàn phân phối lớn của Nhật Bản tại Việt Nam. Theo đó, đến năm 2025 mục tiêu xuất khẩu 1 tỷ USD hàng Việt qua hệ thống này.
Ông Yuichiro Shiotani- Giám đốc Tập đoàn AEON Việt Nam cho hay: Để trở thành nhà cung cấp cho AEON không quá khó. Nhà cung cấp Việt Nam cần đáp ứng 9 yêu cầu cơ bản. Cụ thể, yêu cầu về năng lực đáp ứng đơn hàng; có mong muốn sản xuất sản phẩm cho AEON; sản xuất OEM, có báo cáo tài chính 2 năm gần đây nhất, có thời gian hoạt động trên 5 năm, sở hữu 1 nhà máy sản xuất riêng, công suất hoạt động của nhà máy so với cùng kỳ năm trước sản lượng đạt 75% trở lên, đảm bảo sản xuất gấp 10 lần so với kế hoạch đặt hàng, nhà cung ứng có kinh nghiệm sản xuất hàng xuất khẩu.
Riêng với mặt hàng nông sản, ông Yuichiro Shiotani cũng cho hay: AEON là đơn vị đầu tiên đưa trái vải tươi vào Nhật Bản, năm 2022, dự kiến đạt sản lượng 2,5 tấn. Tuy nhiên, vải cũng như nhiều loại nông sản khác của Việt Nam mùa vụ rất ngắn, hạn chế nhập khẩu hàng tươi. Do đó, nhà cung cấp Việt Nam có thể chuyển sang cung cấp hàng đông lạnh nhằm tăng sản lượng cung ứng. “Hàng năm, AEON chỉ xuất khẩu được 2 tấn xoài tươi của Việt Nam nhưng có thể xuất khẩu tới 300 tấn xoài đông lạnh”, ông Yuichiro Shiotani nói.
Mặt khác, để cạnh tranh được trên thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ sản xuất và bán sản phẩm mình có mà nên tập trung vào sản phẩm thị trường cần.
Ông Takeo Nakajima- Trưởng cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Hà Nội (Jetro) cũng bày tỏ: Hàng hoá Việt Nam có nhiều cơ hội hiện diện trên thị trường, nhất là thông qua lực lượng 450.000 người Việt Nam đang sinh sống tại Nhật Bản. “RCEP sẽ thúc đẩy các cơ hội, tích hợp hơn nữa trong đầu tư và thương mại giữa hai nước”, ông Takeo Nakajima nói.
Tuy nhiên, giá hàng hoá của Việt Nam vẫn cao. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Nhật Bản khắt khe với các tiêu chuẩn về chất lượng, tính an toàn, sức khoẻ, môi trường. Họ khá kỹ tính, chú trọng chi tiết và luôn tìm kiếm sự thay đổi tốt hơn. Do vậy, muốn tồn tại trong môi trường đó doanh nghiệp cần trở thành người tốt nhất .
Dịch vụ hậu mãi là chìa khoá giữ chân người tiêu dùng, nhà cung cấp Việt Nam cũng cần quản lý tốt dịch vụ chăm sóc khách hàng thu hút người mua.
Việt Nga















